Sưu Tầm- Liên Kết
Đồng Bằng Sông Cửu Long 2020 CÁNH ĐỒNG CHẾT VÀ 45 NĂM ẢO VỌNG TRÍ THỨC
Đồng Bằng Sông Cửu Long 2020 CÁNH ĐỒNG CHẾT VÀ 45 NĂM ẢO VỌNG TRÍ THỨC
Lời Dẫn Nhập: Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, sau khi hoàn tất bộ sách đồ sộ “Cây Cỏ Việt Nam” mà Giáo sư gọi là “công trình của đời tôi" và vào mấy năm cuối đời,như một Di Chúc,đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho: “Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước. Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10/XI/1986 tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh. Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào.” Thế hệ sinh sau 30 tháng 4, 1975 nay cũng đã 45 tuổi, cũnglà 45 năm của một chính sách ngu dân lãng phí / huỷ diệt nguồnchất xám, và lăng nhục cả một thế hệ trí thức Miền Nam.Và nghĩ xa hơn, một Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ không chết như ngày nay nếu có một nhà nước biết trân trọngsử dụng nguồn chất xám ấy, mà biểu tượng là hai trí tuệ kiệt xuất củaMiền Nam như Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, là hai thành viên sáng lập Viện Đại học Cần Thơ năm 1966, và sau 1975 cả hai có cùng một ý nguyện chọn ở lại để xây dựng đất nước sau chiến tranh và thống nhất. Để rồi, GS Nguyễn Duy Xuân thì chết thảm sau 11 năm bị đầy đọa trong trại tù cải tạo Hà-Nam-Ninh ở Miền Bắc, và GS Phạm Hoàng Hộ thì trải qua một chặng đường vô cùng đau khổ qua “một thời kỳ sống trong ảo vọng là sẽ thấy đất nước đi lên, giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở trên đường quê hương” để rồi kết thúc là một cái chết buồn bã xa nửa vòng trái đất bên ngoài quê hương, một quê hương mà ông suốt đời gắn bó và chẳng bao giờ muốn xa rời. Hình ảnh một Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một Giáo sư Nguyễn Duy Xuân những năm sau 1975, là tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí thức Miền Nam. Trang sử ảm đạm ấy là một bài học đắng cay cho cả một dân tộc sẽ không thể và không bao giờ quên. Với các thế hệ trẻ sau 1975 ở khắp năm châu, cùng với bản tiếng Việt, nay có thêm bản tiếng Anh để các bạn dễ dàng tiếp cận hơn với bài học lịch sử ấy.
|
Passport mới độc đáo của Canada
Passport mới độc đáo của Canada Nhiều người dân Canada đã rất thích thú khi được cấp hộ chiếu mới của quốc gia này. Ðiều đặc biệt khiến nhiều người chọn Canada là quốc gia có passport "độc nhất" chính là bởi những hình vẽ chìm, chỉ hiện ra trong bóng tối được in trên những trang hộ chiếu. Khi nhìn tấm hộ chiếu trong ánh sáng thông thường, nó cũng giống như passport của những quốc gia khác. Với bóng đêm, những tấm hộ chiếu lại có những hình ảnh đầy màu sắc và nổi bật được những biểu tượng đặc trưng của đất nước Canada như hình lá phong... Không chỉ có tác dụng trang trí, những hình vẽ này còn dùng để phục vụ cho vấn đề kiểm soát an ninh nhằm tránh làm giả hộ chiếu, đồng thời giúp hành khách dễ dàng tìm kiếm hộ chiếu bị thất lạc. Sau đây Tiến sĩ Trương Công Hiếu có vài lời giãi thích về kỹ thuật này Muốn thấy được hình độc đáo trên passport anh cần có một UV light; fluorescent black light sẽ tạo hình rõ hơn. UV LED cũng có thể rọi được. Tốt nhất là loại UV light phát ra wavelength trong khoảng 310 nm (nanometer) đến 395 nm. Trong những kỹ thuật về phản chiếu ánh sáng và đổi màu, tôi có phát minh 3 loại fluorescence trên đồng tiền (hoặc trên giấy hay plastic, có thể in trên passport, hay giấy bạc hoặc tem ,...) 1- Có thể dùng đèn thường rọi lên đồng tiền. Lúc tối, khi tắt đèn thì đồng tiền sẽ chiếu sáng lên. Đây là technology đã đem về cho Canada giải thưởng về kỹ thuật in tiền xu (coin) hiện đại nhất trên thế giới năm 2013 (Most Innovative Coin tại Berlin World Fair) với skeleton của một con dinosaur. Đồng tiền nầy đã bán hết hàng "sold out" từ lâu. Nếu quý vị vào Website của Royal Canadian Mint " www.mint.ca ", click on SHOP, click on INNOVATION, click on GLOW-IN-THE-DARK. Anh sẽ thấy Royal Canadian Mint đang có bán 3 đồng tiền dùng technology nầy gọi là "Glow-in-the-dark" (Đồng số 140555; 140563; 132685 bán với giá là $104.95; these are silver coins and they are almost sold out, but still available). 2- Nếu dùng đèn (UV black light) rọi lên đồng tiền sẽ thấy những hình ảnh khác hiện lên. Đây là technology dùng trên đồng 25 cent phát hành để xài hàng ngày: ví dụ, Commemorative REMEMBRANCE circulation coin có hình poppy flower màu đỏ được phát hành bởi Nhà Máy Đánh Tiền Hoàng Gia Canada vào năm 2004, 2006; Commemorative Breast Cancer Fight phát hành năm 2005. Đồng tiền nầy đã được giải thưởng hạng nhất tại Paris và Canada cũng được các nhà máy đánh tiền trên thế giới bình chọn và tặng thêm giải thưởng hạng nhất về kỹ thuật hiện đại nầy. Đây cũng là technology dùng trên "Passport mới độc đáo của Canada". Mỗi khi Mint phát hành các đồng tiền với kỹ thuật mới nầy thì khi người dân Canada thu nhận vào họ thường giử lại để dành cho nên rất hiếm thấy được loại tiền nầy mang ra sử dụng ở chợ khi đi mua sắm (The Royal Canadian Mint voluntarily issued the coin at only 25 cent face value so that all Canadians can afford to have the coin). Khi Canada phát hành ra đồng tiền với kỹ thuật nầy (fluorescent under the UV light), US Defence Department và báo chí Mỷ cho rằng Canada đã phát minh ra loại đồng tiền "spy" vì đây có thể là một cách cất giử tiền xu trong người khi đi họp rồi thu âm những lời nói của những buổi họp bảo mật!!. ( Bộ Quốc Phòng Mỹ có viết thơ cho Royal Canadian Mint hỏi về lập trình của đồng tiền nầy, và Mint đã đưa qua cho tôi trả lời bức thơ đó). Nếu quý vị vào Website của Royal Canadian Mint "www.mint.ca" click như trên, anh sẻ thấy Mint đang bán coin số 148514, silver coin có đề tài là Weather Phenomenon (với giá là C$99.95), in màu và khi rọi UV light vào đồng tiền thì sẽ thấy những tia sáng như sấm chớp làm sáng bầu trời trên mặt đồng tiền. 3- Technology thứ 3, xuất sắc và duy nhất trên thế giới, chưa có nước nào đưa ra, kể cả Canada, vì nó quá mới (cũng là patent của tôi). Đó là đồng tiền từ từ đổi nhiều mầu, từ mầu nầy sang mầu khác, trước mắt người xem theo từng giây phút thời gian (trong vài giây đến một phút) khi đưa đồng tiền ra ánh sáng mặt trời hoặc dưới ánh đèn UV black light. Khi đóng nắp hộp đựng đồng tiền lại thì màu sắc các tia sáng sẽ tự biến mất. Khi mở hộp ra dưới ánh sáng mặt trời hoặc UV black light thì các ánh mầu sẽ xuất hiện lại. Tôi đã thực hiện thành công được sự chuyển mầu trên đồng tiền và đưa qua cho Marketing của Mint để commercialize. Technology nầy có thể áp dụng trên đồng tiền, hoặc trên giấy bạc ... và sẽ còn độc đáo hơn mầu sắc mà quý vị thấy trong Passport Canada ngày nay .... Tôi sẽ đề nghị Mint đưa technology nầy ra để ăn mừng Canada Celebrate 150 tuổi vào năm 2017. Đây là vài contribution của Cộng Đồng người Việt đã làm cho đất nước Canada nổi bật về kỹ thuật in tiền và đứng đầu trong kỹ nghệ đánh tiền trên thế giới. Xin mời quý vị vào xem Website "www.mint.ca" của Royal Canadian Mint. Hiếu và Hiếu |
CHỮ QUỐC NGỮ - Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách (tại Đức)
Sự ra đời của chữ quốc ngữ - Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh CHỮ QUỐC NGỮ Lisboa - Bồ Đào Nha Bồ Đào Nha là dân tộc của những người đi biển. Hơn thế nữa, từ xưa, họ là những người chịu bỏ xứ đi tha hường. Lisboa là cảng biển thiên nhiên duy nhất của bán đảo Iberia, từ trước công nguyên đã là một trung tâm chính trị và kinh tế. Lisboa nằm ngay trên cửa biển, hòa nước ngọt của sông Tejo vào nước mặn của Đại Tây Dương, mênh mông một màu nước, khơi gợi lòng viễn du của một dân tộc sẵn sàng lên đường. Thực vậy, kể từ thế kỷ thứ 15, khi tài đi biển của người Bồ Đào Nha lên đến đỉnh cao, quốc gia này bành trướng thành cường quốc số một ở Châu Âu, chiếm lĩnh nhiều thuộc địa ở Brazil, Châu Phi, Ả-rập, Ấn Độ và Trung Quốc. . . Năm 1511 thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt đầu nhắm đến Trung Quốc và Nhật Bản. Họ vòng từ miền nam Ấn Độ, đi đường biển dọc theo miền Trung Việt Nam để lên đảo Macau. Nhà truyền giáo đến với cộng đồng bằng thuyền ở Việt Nam xưa Hẳn họ đã dừng chân tại Hội An để buôn bán và tiếp tế lương thực, nên năm 1524 họ dựng một tấm bia đá ở cù lao Chàm. Song song, các nhà truyền giáo lần lượt đến Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Trong những năm cuối của thế kỷ thứ 16 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha của hai dòng thánh Francisco và Agustino đến Việt Nam, nhưng cuối cùng bỏ cuộc. Đầu thế kỷ thứ 17 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lại đến Việt Nam một lần nữa và lần này họ thành công. Dòng Tên* chính thức được thành lập ở Đàng Trong năm 1615. Đàng Ngoài năm 1627. Trong giới giáo sĩ dòng Tên người Bồ có một nhân vật xuất sắc, đóng một vai trò lịch sử trong nền văn hóa Việt Nam, đó là Francisco de Pina. Pina sinh năm 1585, đến Macau năm 1613, đặc biệt rất giỏi tiếng Nhật. Năm 1617 ông đến Đàng Trong truyền giáo và bắt đầu dịch một số văn bản của Ki Tô giáo ra tiếng Nôm, một thứ chữ Hán được bản địa hóa.. Thế nhưng Pina nhận thấy các nhà truyền giáo đồng nghiệp có một khó khăn trầm trọng , đó là họ không sao học được chữ Nôm. Chàng linh mục trẻ tuổi Pina thấy chữ Nôm không thể là phương tiện giao lưu với người bản xứ, ông nghĩ ra một cách đơn giản. Ông thử lắng nghe người Việt phát âm ra sao rồi dùng mẫu tự la tinh để diễn tả âm tiết theo cách mà tiếng Bồ Đào Nha thường làm. Đó là thời điểm khai sinh của chữ quốc ngữ chúng ta ngày nay. Theo lời xác nhận của chính Pina, kể từ năm 1622, ông đã xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự la tinh cho hợp với thanh điệu và lối phát âm của tiếng nói Viet Nam. Pina cũng soạn cả một tập văn phạm thô sơ cho loại chữ viết mới mẻ này. Có lẽ trên thế giới không có nơi nào có một thứ chữ viết được hình thành trong điều kiện như thế. Năm 1624 Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo khác. Trong số người đến học với ông có hai vị quan trọng, một người đã lớn tuổi là António de Fontes (1569 -?), sinh tại Lisboa. Vị kia chính là Alexandre de Rhodes (1591-1660), sinh tại Avignon, Pháp.Hai vị này lãnh hai trọng trách, de Fontes là trụ cột cho giáo xứ truyền giáo ở Đàng Trong, còn de Rhodes sẽ ra Đàng Ngoài vào năm 1626, lúc đó trong thời kỳ của Chúa Trịnh Tráng. Một ngày nọ trong thang12 năm 1625, một chiếc tàu của Bồ Đào Nha bỏ neo ở vịnh Đà Nẵng, Pina lên tàu để mang hàng hóa vào bờ. Khi đến bờ chẳng may thuyền chìm, Pina chết tại đó, ông chỉ sống được 40 tuổi. Sau cái chết bi thảm của Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục xây dựng chữ quốc ngữ mà hai nhân vật có công nhất chính là hai người Bồ, Gaspar de Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647). Còn Alexandre de Rhodes thì bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, phải đi Macau. Mười năm sau, năm 1640 de Rhodes trở lại Đàng Trong và đến năm 1645 bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. De Rhodes trở về La Mã và năm 1651 ông cho xuất bản tập tự điển Việt-Bồ Đào Nha-La Tinh (Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum). Trong các đời sau, nhiều người tôn Alexandre de Rhodes là người sáng tạo chữ quốc ngữ nhưng thực ra đó là công của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, mà người đầu tiên phải là Francisco de Pina. Một tình cờ của lịch sử đã đưa các vị giáo sĩ Bồ Đào Nha phát minh ra một loại chữ viết cho cả một dân tộc xa lạ, trong đó họ buộc phải dùng mẫu tự và âm tiết của ngôn ngữ mình để diễn tả một tiếng nói khác, vốn mang đầy thanh âm trầm bổng như tiếng chim. Mục đích ban đầu của chữ quốc ngữ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với cộng đồng tôn giáo của mình bằng chữ viết. Về sau, khi các nhà cai trị người Pháp đến Việt Nam, họ cũng không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm. Giải pháp thuận tiện của người Pháp là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng chữ quốc ngữ và có lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes được nêu bật. Từ 1930 chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của người Việt. Chú thích: * Bài viết trích từ chương Những Người Đi Biển, trong tập bút ký "Đường Xa Nắng Mới" của TS Nguyễn Tường Bách, tên bài viết do blog tự đặt. |
Sự ra đời của chữ quốc ngữ - Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh
CHỮ QUỐC NGỮ Nhân kỷ niệm 85 năm bãi bỏ chữ Nho (1919) và 80 năm (1924) quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy tại cấp tiểu học Việt Nam (1591 - 1660) (1882 - 1936) Chữ Hán từng được dùng ở Việt Nam trong vòng một ngàn năm mãi đến tận đầu thế kỷ thứ 20. Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630). Ông là người có công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng Việt (nhiều tác giả gọi là La-tinh hóa. Thực ra mẫu tự chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ La-tinh). Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. trong việc La-mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản Bài giảng giáo lý Tám ngày đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome. Hệ thống chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La-mã này được chúng ta ngày nay gọi là chữ quốc ngữ (chữ viết của quốc gia) Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1882 tại Hà Nội cái năm thành Hà Nội thất thủ vào tay quân Pháp do đại tá Henri Rivière chỉ huy. Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn. Gia đình Nguyễn Văn Vĩnh nghèo nên không có tiền cho con cái đi học. Lên tám tuổi, cậu Vĩnh đã phải đi làm để kiếm sống. Công việc của cậu lúc đó là làm thằng nhỏ kéo quạt để làm mát cho một lớp đào tạo thông ngôn do người Pháp mở ở đình Yên phụ - Hà Nội. Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng. Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và còn trả lời được các câu hỏi của thày giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong lớp còn đương lúng túng. Thầy giáo người Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng giúp tiền cho cậu vào học chính thức. Năm 14 tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa học và trở thành một thông dịch viên xuất sắc. Sau đó ông được bổ làm trợ lý cho công sứ Pháp tỉnh Bắc Ninh. Năm 1906, lúc ông 24 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi sang dự triển lãm tại Marseilles. Tại đây, ông được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo chí. Ông còn là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền Pháp. Trở về Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan chức và bắt đầu làm báo tự do. Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ. Năm 1913 ông xuất bản tờ Đông dương Tạp chí để dạy dân Việt viết văn bằng quốc ngữ. Ông là người đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ các tác phẩm của các đại văn hào Pháp như Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas, La Fontaine, Molière, v.v. và cũng là người đầu tiên dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp. Bản dịch Kiều của ông Vĩnh rất đặc sắc, vì ông không chỉ dịch cả câu mà còn dịch nghĩa từng chữ và kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó - một điều chỉ có những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam (bằng chữ Nôm),Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có thể làm được. Sự cố gắng và sức làm việc phi thường của ông Vĩnh đã góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân Việt, và đẩy xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ quốc ngữ. Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương - Hội - Đình) ở Bắc Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt. Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin ký quyết định đưa chữ Quốc Ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học. Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt – La - Bồ của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoạn tuyệt với chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ quốc ngữ. Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng nghề báo của mình. Ông là người luôn lên tiếng phản đối chính sách hà khắc của Pháp đối với thuộc địa, là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ chối huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và cũng là người đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh. Vì thế chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương chẳng ưa gì ông. Tòa báo của ông vỡ nợ. Gia sản của ông bị tịch biên. Ông bỏ đi đào vàng ở Lào và mất ở đó năm 1936 vì sốt rét. Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc mộc trên một dòng sông ở Sepole. Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một quyển sổ ghi chép: Ông đang viết dở thiên ký sự bằng tiếng Pháp Một tháng với những người tìm vàng. Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến ga Hàng Cỏ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự yên lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn ông Con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của Mình đã góp phần làm cho chữ quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân Việt. ---Tôi đã vẽ bức tranh Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh với lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam – Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.------ Lời cảm ơn: Tác giả bài viết này biết ơn thân sinh của mình – nhà giáo Nguyễn Đình Nam, người đầu tiên kể cho tác giả về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh từ khi tác giả còn là học sinh tiểu học, khi sách giáo khoa chính thống còn gọi Alexandre Rhodes là gián điệp còn Nguyễn Văn Vĩnh là bồi bút của Pháp. Tác giả xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Kỳ - con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh, và ông Nguyên Lân Bình - cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh vì những câu chuyện xúc động về cuộc sống và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh cũng như của gia tộc cụ. Tác giả xin cảm ơn thày Trí - cháu ngoại cụ Nguyễn Văn Vĩnh , đồng thời từng là thày dạy toán của tác giả khi tác giả là học sinh trung học. Nguyễn Đình Đăng Tokyo, 10/11/2004 Sự ra đời của chữ quốc ngữ - Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh |
TƯỢNG PHẬT VIỆT NAM QUA CÁC THỜI ĐẠI - Biên khảo của Tôn Kàn
• TƯỢNG PHẬT VIỆT NAM QUA CÁC THỜI ĐẠI • Phật giáo Tiểu Thừa lan xuống miền Bắc Việt Nam từ Trung Hoa vào khoảng thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên (SCN). Đến khoảng thế kỷ thứ 5 SCN, Đại Thừa xâm nhập rồi phát triển mạnh mẽ , trở thành quốc đạo dưới thời nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần. Tại miền Nam, Phật giáo hệ phái Theravada tràn vào từ Nam Ấn và Tích Lan. Ảnh hưởng Theravada duy trì và phát triển sau khi Việt nam xâm chiếm vương quốc Chàm và Khmer. Trong chùa, ngoài tượng Phật để thờ ở chính điện còn có tượng của các Hộ Pháp và La Hán thường thường được bày trong bái đường và hành lang. Biên khảo của Tôn Kàn Đầu Xuân 2012 HÌNH 1. Tượng Phật đứng Chàm. Tượng bằng đồng đen , cao 122cm. Đúc vào thế kỷ thứ 5 SCN. Đây là pho tượng cổ nhất kiếm được ở làng Đông-dương , thị xã Quảng Nam, vốn là kinh đô của vương quốc Chàm thời xưa. Ảnh hưởng của trường phái Amavarati Bắc Ấn thật rõ rệt . Dấu urna trên trán giữa hai mắt cho biết tượng này không xuất phát từ Tích lan vì Tích lankhôngdùng dấu này. Hồi Việt Nam Cộng Hòa, tượng được bày tại viện Bảo tàng quốc gia ở Saigon. Tượng tạc bằng đá xanh nguyên khối , vào khoảng năm 1066 thời Lý thánh Tông. Hiện để thờ tại chùa Phật Tích tỉnh Bắc Ninh.Tượng cao 165cm. Đây có lẽ là pho tượng cổ nhất của nghệ thuật điêu khắc Phật giáo Việt Nam. Đức Phật ngồi thiền trên tòa sen. Kiểu tóc và áo phản ảnh nghệ thuật thời Đường. Tượng để thờ tại chùa MỘT CỘT là di tích lịch sử danh tiếng nhất Hà Nội và Việt Nam. Chùa còn có tên là Diên Hựu Tự và xây dựng năm 1049 thời vua Lý thái Tông. Trong hơn nghìn năm qua , chùa đã được tu bổ nhiều lần. Tượng bằng gỗ sơn son thếp vàng .Thời nhà Trần ( thế kỷ thứ 14 ). Tượng thứ nhất trưng tại viện Bảo tàng Việt Sử, Hà Nội. Tượng thứ hai thờ ở chùa Bà Đá ( Vĩnh Nghiêm ), Bắc Giang. Đây là hai pho tượng Phật cổ rất hiếm và rất qúy, ít người biết đến. Tương truyền rằng, khi mới sinh ra, Tất đạt Đa Cồ Đàm đi 7 bước, dưới chân nở ra 7 đóa hoa sen, một tay chỉ xuống đất, một tay chỉ lên trời, miệng nói rằng:” Trên trời dưới đất, ta là tôn qúy nhất.”. Khi đó có 9 con rồng phun nước tắm cho Phật sơ sinh,do vậy có một tượng gọi là tòa Củu Long, thường đặt ngay sau hương án chính , bên dưới các bộ Tam Tôn. HÌNH 6 . Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn. Tượng tạc bằng gỗ , sơn son thếp vàng , vào khoảng thời nhà hậu Lê.Hiện để thờ tại chùa Bút Tháp , tỉnh Bắc Ninh.Tượng cao 370 cm, có ghi niên đại năm tạc và tên người tạc:” Tuế thứ Bính Thân niên, thu nguyệt cốc nhật danh tạo, Nam Đông Giao Thọ nam tiên sinh phụng khắc.” Tượng gồm cả hai dạng của Quan Âm: 11 đầu và ngàn mắt ngàn tay. HÌNH7. Tượng Quan Âm, chùa Tây Phương, Hà Nội. HÌNH 8. Tượng Quan Âm, chùa Dâu ,Bắc Ninh. HÌNH 9. Quan Âm Tống Tử. HÌNH 10. Quan Âm Thị Kính. Chùa Tây phưong , Hà Nội. Tượng thờ ở chùa Sùng Nghiêm tỉnh Sơn Tây. Một kiệt tác của ngành điêu khắc Phật giáo Việt Nam. Tượng thờ tại chùa Bút Tháp , tỉnh Bắc Ninh. HÌNH 13. Các vị LA HÁN , chùa Tây Phương , Hà Nội. Tượng Ông Thiện, chùa KEO , Thái Bình. HÌNH 15. Tượng LA HÁN, chùa NÔM, Hưng Yên HÌNH 16 . Phật Tuyết Sơn , thời Trịnh nguyễn , chùa Tây Phương. HÌNH 17. Phật Tuyết Sơn , thời hậu Lê , chùa Bút Tháp.. Tượng làm bằng đất được sơn phết , không bị hư hại sau nhiều trận lụt khủng khiếp. Chùa Nôm có đến 100 bức tượng cổ bằng đất. HÌNH 19. Phật tọa thiền. Tạc bằng gỗ mít không sơn. Hiện thờ tại chùa Đậu , Thường Tín, HàNội . ![]() HÌNH 20 . Chùa Thiên Mụ (Linh Mụ ) Danh linh thắng cảnh của Huế thơ mộng ,chùa nằm trên đồi Hà Khê và được khởi công xây cất năm 1601 dưới thờì Chúa Nguyễn Hoàng. Trong chùa có thờ Thập điện Minh Vương. HÌNH 21. Chùa Từ Đàm . Đây là trung tâm tinh thần của Phật giáo miền Trung ,và có lẽ của cả miền Nam Việt Nam . Chùa được xây cất vào thế kỷ thứ 17 SCN , dưới thời Vua Lê Hy Tông đang bị Chúa Nguyễn trấn áp. Chùa tọa trên đồi Long Sơn giữa thành phố Huế. HÌNH 21 & 22Tượng Phật chùa Từ Đàm. Tôi không rõ xuất sứ và lịch sử hai pho tượng Phật chụp trong hình. Vậy qúy độc giả nào biết chi tiết thì xin làm ơn chỉ giáo. Xin đa tạ trước. HÌNH 23 . A-di-đà Tam Tôn. HÌNH 24. Địa Tạng Bồ Tát. HÌNH 25. Chùa VĩnhThạnh,MỹTho. Đây là một chùa khá kỳ cựu và rất nổi tiếng ở miền Nam , được xây cất vào đầu thế kỷ thứ 19. Kiến trúc chịu ảnh hưỏng La Mã trộn với truyền thống Theravada. Trong chùa có thờ rất nhiều tượng bằng gỗ và bằng đồng chịu ảnh hương của Trung Hoa. Đứng trưóc Phật A-di-đà là tượng Thích Ca sơ sinh. Tượng Địa Tạng khá độc đáo ngộ nghĩnh , ít khi thấy ở các nơi khác. HÌNH 26 . Phật nhập Niết Bàn. Chùa Linh sơn , Nha Trang. HÌNH 27. Phật tọa thiền bằng khối đá ngọc. Tượng Địa Tạng khá độc đáo ngộ nghĩnh , ít khi thấy ở các nơi khác. Chùa Tùng Vân,Vĩnh Phúc. Tượng bằng đồng , nặng 100 tấn. Đây là ngôi chùa cổ nhất tỉnh Sóc Trăng , xây cất từ năm 1533 . Lối kiến trúc cho ta thấy ảnh hưởng văn hóa Khmer và hệ phái Phật giáo Theravada. Tay Phật bắt Địa Xúc Ấn ( Aksobhya mudra ). KẾT LUẬN Ngắm các tượng Phật cổ Việt Nam , người ta cảm phục tài năng và tinh thần nghệ thuật của các điêu khắc gia Phật giáo. Tuy chịu ảnh hưởng rất nặng nề của Trung Hoa và Ấn độ , những nghệ sĩ này vẫn bảo vệ và phát huy một cái nhìn sâu sắc tinh tế để trình diễn trên các pho tượng những đặc tính độc đáo của dân tộc Việt. Chiêm ngưỡng tượng Thích Ca sơ sinh , Phật Tuyết Sơn , Quan Âm Thiên thủ Thiên Nhãn , và nhất là tượng Quan Âm Thị Kính , mọi người đều phải công nhận rằng đây là tượng Phật Việt Nam , chứ không phải là tượng của Ấn độ , Trung Hoa ,Triều Tiên hay Nhật Bản. Người Việt Nam đã đóng góp tiếng nói của mình để ca tụng Đức Phật , và đã giúp chúng sinh cảm thấy gần gũi với Ngài hơn. Những pho tượng Phật hiện đại có vẻ nhắm vào phô trương hơn là hướng về nghệ thuật hay đạo lý . Những pho tượng khổng lồ được chế tạo rập theo một khuôn mẫu gò bó thiếu tự nhiên, khiến cho người ta cảm thấy bị áp chế đè nén , không phát huy được trí tưởng tượng hay lòng cảm hóa có thể dẫn dắt con người đến Giác ngộ. Người ta mong rằng trong tương lai , những nghệ sĩ Việt Nam sẽ vươn thoát khỏi cái quan niệm chật hẹp khuê trương khuyếch đại, để theo đuổi một đường lối phù hợp với tinh thần khiêm nhường giản dị và thuyết Vô thường của Phật đạo. TÔN KÀN Đầu Xuân 2012 |
Sài Gòn Xưa
Sài Gòn Xưa – Người và Cảnh: Trường xưa nghĩa cũ Trường Mạc Đĩnh Chi Trường trung học Mạc Đĩnh Chi Q.6 Trường trung học Mạc Đĩnh Chi Tiểu sử PHI-HUE-NGUYEN-CHANH-TIN-DANG HUU HIEU Ban hop ca Mac Dinh Chi (hon vong phu). Ngay Xua - Hoat Canh... Ngay Xua len duong Tat nien lop de nhat B1 khoa 1971 MDC-69- Cô Bạch Như Tuyết - dạy PhápVăn Trường trung học Mạc Đĩnh Chi Q.6 (h.3) Trường trung học Mạc Đĩnh Chi Q.6 (h.5) Khoa 64-65 Lop de nhat B1 khoa 1971 Nu hoc sinh khoa-71 Mạc Đỉnh Chi -68-di ban bao xuan khoa-68-De Tam B1 Trường Collège Chasseloup- Laubat Lê Qúi Đôn xưa – ngôi trường xưa nhất Sài gòn Trường Collège Chasseloup- Laubat – Lê Qúi Đôn xưa – ngôi trường xưa nhất Sài gòn LE QUY DON (NK1969-1970) Sơ nét về trường Lê Qúi Đôn Hồ con rùa năm 1972 ( khi còn con rùa ) Trường Marie-curie Trường Marie-curie Sơ nét về trường MARIE-CURIE Marie-Curie-72-73-2A1 Marie-Curie-74-75-Lop-cuoi-D1 Marie-curie sân trường Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ. học sinh SG 63 Trường Gia Long Trường Gia Long-1925 Gia Long 1925 Sân trường Gia Long 1931 Đội văn nghệ của trường ngày xưa này các bạn! Sân trường Gia Long 1931 Cổng trường năm 1947 Cổng trường năm 1947 h2 Cảnh giờ rước học sinh tại trường. Hiện cổng này nằm trên mặt tiền đường Nguyễn Thị Minh Khai. Tiểu sử Nữ sinh trường Gia Long năm 1969 với chiếc áo dài thướt tha. Trường Gia Long Khuôn viên trường Nữ Trung Học Gia Long Xích lô: phương tiện di chuyển của học sinh ở xa trường Trường Lê Văn Duyệt Trường Lê Văn Duyệt ( là trường Võ Thị Sáu ngày nay ) Cổng trường Nữ Trung Học Lê Văn Duyệt sau năm 1973 Các cô giáo trường LVD Niên Khóa 1975 Le Van Duyet 74 Cô giáo trường Lê Văn Duyệt NK.73 Cô giáo trường Lê Văn Duyệt NK.73 h2 Nữ sinh Lê Văn Duyệt truong-le-van-duyet-1970 http://www.levanduyet.net/ Nữ sinh Lê Văn Duyệt 68 Liên hoan lớp khoá 68, trường Lê Văn Duyệt Nữ sinh Lê Văn Duyệt 66 Sách giáo khoa Học trò xưa đến trường Trường Trưng Vương Trường Trưng Vương xưa Sơ nét tiểu sử Nữ sinh Trưng Vương, văn nghệ Xuân 1974 Trưng Vương Gốc cây này là nơi chúng tôi đã bu quanh chiếc xe đạp của ông bò khô để thưởng thức ôi biết bao mùi vị thơm ngon ngọt ngào cay chua cùng tụ lại… trên đĩa gỏi nhỏ. Trung-Vuong-De-Nhi-AP1-1969 Bà Hiệu trưởng Tuyết và các giáo sư cùng quan khách trên bộ Giáo Dục tới dự lễ Hai Bà Trưng tổ chức tại trường Trưng Vương. HS tham gia sinh hoạt Hướng Đạo tiểu học VNCH Trường Võ Trường Toản Trường Võ Trường Toản (kế bên trường Trưng Vương) Tiểu sử Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản 57-64 (1) Phù hiệu may áo học sinh trường Võ Trường Toản HS Võ Trường Toản Học sinh hành khúc trường Võ Trường Toản Học sinh Võ trường Toản Trường LA SAN TABERD bây giờ là trường Trần Đại Nghĩa Lasan-Taberd-64-65-Toa-nha-Ban-Tieu-hoc Taberd-histoire 1874-1974 TABERD-1930 Trường LA SAN TABERD 1930 ky-uc-taberd-sg-1 Taberd Bò bía – món khoái khẩu của học sinh SG Trường Trung học Pétrus Ký Trường chuyên Lê Hồng Phong ngày nay Cổng trường Petrus Ký -petrus-Ky-1930 Sơ nét về trường PETRUS-KY cổng trường Petrus Ký học sinh Hiệu trưởng các đời Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký Phá lấu trước sân trường Ngày Phụ Nữ 03/03/1960 tại Sài Gòn vidéo và hình ảnh sưu tầm của chị Linda Ngày Phụ Nữ 03/03/1960 tại Sài Gòn ![]() Saigon 1960 - Nữ sinh Trưng Vương diễn hành trong ngày Phụ Nữ ![]() Xe hoa trường Nữ Trung Học Trưng Vương ![]() Nữ sinh Gia Long diễn hành trong ngày Phụ Nữ ![]() Xe hoa trường Nữ Trung Học Gia Long ![]() Ngày lễ Phụ Nữ tại công trường Lam Sơn - Sài Gòn 1960 ![]() ![]() Khán đài trong ngày lễ Phụ Nữ. Bà Ngô Đình Nhu mặc áo dài ngồi kế bên 1 phụ nữ mặc váy dài [sarong] là Phu Nhân của Cố Tổng Thống Aung San của Miến Điện, bà cũng được gọi là bà quả phụ Maha Thiri Thudamma Daw Khin Kyt. ![]() Bà Ngô Đình Nhu đọc diễn văn khai mạc ngày lễ Phụ Nữ ![]() 1 đại diện phụ nữ đang nêu những thành tích của phụ nữ VNCH và những quyết tâm trong tương lai ![]() Các phụ nữ đang đặt vòng hoa tại đài tưởng niệm Hai Bà Trưng tại công trường Mê Linh ![]() Các đại diện phụ nữ đang đứng trước đài tưởng niệm Hai Bà Trưng tại công trường Mê Linh ![]() Ca đoàn trường Nữ Trung Học Trưng Vương đang hợp ca bài "Trưng Nữ Vương" ![]() Hai Bà Trưng oai phong lẫm liệt trên 2 con voi ![]() Các Nữ Tướng và quân sĩ của 2 bà Trưng ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() Xe hoa Ký Nhi Viện ![]() Xe hoa Phát Triển Cộng Đồng ![]() Xe hoa Liên Đoàn Công Chức Quốc Gia Trong dịp lễ Phụ Nữ, nhiều cuộc thi và giải thưởng được tổ chức cho phụ nữ tham dự. Thi Em Bé Đẹp ![]() ![]() ![]() Một bà mẹ vóc dáng mảnh mai đang hãnh diện khoe em bé mập ú. ![]() ![]() Bà quả phụ của Cố Tổng Thống Aung San của Miến Điện đang trao giải thưởng cho Em Bé Đẹp. Bà quả phụ này chính là thân mẫu của bà Aung San Suu Kyi, là nữ lãnh tụ rất nổi tiếng của Miến Điện hiện nay. Tấm hình bên dưới là bà quả phụ Aung San đang nhận 1 bó hoa hồng từ 1 thiếu nữ VN ![]() ![]() A portrait of Khin Kyi and her family in 1948. ![]() ![]() Thi làm bánh ![]() ![]() ![]() Thi thêu ![]() Thi Cắt May ![]() Thi Văn Chương ![]() ![]() Các phụ nữ đang dự thi viết văn ![]() Người đoạt Giải Viết Văn: cô Phạm Thị Nguyệt trường Huỳnh Khương Ninh ![]() ![]() Lễ trao giải thưởng các cuộc thi tổ chức nhân Ngày Phụ Nữ VN, tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn 03/03/1960 ![]() Các nữ sinh Trung Học Đồng Khánh, Huế, trong ngày lễ Hai Bà Trưng |